Nguyễn Ngọc Linh

Đề Bài: Suy nghĩ về số phận người phụ nữ xưa qua nhân vật Vũ Nương

Đăng 5 năm trước

Đề Bài: Suy nghĩ về số phận người phụ nữ xưa qua nhân vật Vũ Nương

Đề Bài: Suy nghĩ về số phận người phụ nữ xưa qua nhânvật Vũ Nương 

 A, Mở bài: 

  •  Ngườiphụ nữ xưa luôn là đề tài quen thuộc được thể hiện trong văn học trung đại.Viết về họ, Hồ Xuân Hương đã rất thành công với bài thơ “Bánh trôi nước”, đạithi hào Nguyên Du với kiệt tác “Truyện Kiều” và Nguyễn Dữ - học trò của NguyễnBỉnh Khiêm với “Chuyện người con gái Nam Xương” – thiên thứ 16 của “Truyền kỳmạn lục”. Qua nhân vật Vũ Nương, câu chuyện mang đến bao suy tư, trăn trở chongười đọc về thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công. 

B, Thân bài:  

1. Người phụ nữ là nạn nhân của chế độ nam quyền:

  •   Cũng giống như số phận của bao người phụ nữ trong xã hội phong kiến, Vũ Nương đã phải chịu sự rằng buộc bởi những lễ giáo khắt khe, ngặt nghèo. Biết nàng “tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp” cho nên Trương Sinh mến vì dung hạnh nói với mẹ xin trăm lạng vàng cưới về. Đây là một cuộc hôn nhân không bình đẳng, bởi lẽ nó không phải sự rung động của hai trái tiim cùng một nhịp mà là do sự sắp đặt mang tính chất mua bán. Sự sắp đặt của con nhà giàu, lắm tiền nhiều của, muốn gì được nấy, sắp đặt cho con nhà khó “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Cuộc hôn nhân có sự cách bức giàu nghèo đã khiến Vũ Nương luôn luôn mặc cảm “thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Dù Vũ Nương có luôn giữ gìn khuôn phép thì cuộc sống vợ chồng ấy vẫn tiềm ẩn nguy cơ tan vỡ và sau này cũng là cái thế để Trương Sinh độc đoán, gia trưởng, đối xử với vợ một cách vũ phu, thô bạo. 
  •  Trương Sinh vốn ít học, lại có tính đa nghi và hay ghen, do vậy sự nghi kị, ngờ vực làm mầm mống của sự bất hòa đã ủ sẵn trong gia đình. Để rồi, sau 3 năm xa cách, khi trởvề tưởng Trương Sinh sẽ mang lại hạnh Phúc cho gia đình thì cũng là lúc tai họa ập xuống cuộc đời Vũ Nương. Chỉ vì lời nói ngây thơ của bé Đản: “Ô hay! Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không giống như cha tôi trước kia chỉ im thin thít”, làm cho Trương Sinh ngờ vực, hiểu lầm vợ hư hỏng. Dù Vũ Nương có tha thiết dãi bày, có hết lời phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình, dù họ hang làng xóm hết lòng khuyên can và biện hộ cho nàng thì Trương Sinh cũng không hề đếm xỉa tới, mà chỉ một mực nghi oan cho vợ. Rồi từ chỗ “la um lên cho hả giận”, Trương Sinh đã mắng nhiếc, đuổi vợ đi. Phải chăng xã hội phong kiến với chế độ nam quyền độc đoán, với thói “trọng nam khinh nữ” bám chặt vào huyết quản đã dung túng, cho phép người đàn ông được quyền coi thường, rẻ rung và đối xử thô bạo với người phụ nữ? Thương nhớ chồng là thế, lại bị chồng ruồng rẫy, gạt bỏ. Giữ gìn khuôn phép, rất mực thủy chung lại bị coi là thất tiết, chịu tiếng nhuốc nhơ,… Nàng không hiểu vì sao bị đối xử bất công, bị mắng nhiếc và đuổi đi, không có quyền được tự bảo vệ ngay cả khi có họ hang làng xóm bênh vực và biện bạch cho. Hạnh Phúc của gia đình, thú vui nghi gia nghi thất, niềm khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ, tình yêu không còn “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rủ trong ao, liễu tàn trước gió”, cả nỗi đau khổ chờ chồng đến hóa đá trước đây, cũng không có thể có lại được nữa. Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã không còn cách nào hàn gắn nổi, Vũ Nương đành mượn dòng Hoàng Giang rửa sạch nỗi oan nhục, giãi bỏ tấm lòng trong trắng của mình. Lời than của nàng như lời nguyền xin thần song chứng giám nỗi oan khuất và đức hạnh của nàng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điêu đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị nương, xuống đất xin làm cỏ ngu mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. 

=> Qua tác phẩm, ta thấy Vũ Nương đã nhiều lần gắng gượng để vượt lên số phận nhưng cuộc đời nàng không thoát khỏi là nạn nhân của chế độ nam quyền độc đoán, chà đạp và ức hiếp con người. 

=> Cái chết của Vũ Nương thực chất là do bị chồng bức tử -một cái chết đầy oan ức. Vậy mà, Trương Sinh thấy nàng tự tận chỉ một chút động lòng mà không hề ân hận, day dứt. Ngay cả khi, đứa con trỏ tay vào bóng chàng trên vách nói là cha, chàng hiểu rõ nỗi oan của vợ thì cũng coi là việc đã qua rồi. Như thế, chuyện danh dự, chuyện sinh mệnh của người phụ nữ bị tùy tiện định đoạt bởi người chồng, người đàn ông mà không có hành lang đạo lý, không được dư luận xã hội bảo vệ, che chở. Nỗi oan của Vũ Nương đã vượt ra ngoài nỗi oan gia đình, là một trong vuôn vàn oan khuất của xã hội đầy rẫy nhưng oan trái, bất công, quyền sống của con người không được bảo đảm, người phụ nữ với thân phận “bèo dạt mây trôi” có thể gặp bao nhiêu tai họa giáng xuống bất kỳ lúc nào, vì những nguyên cớ vu vơ không thể tưởng tượng. Rõ rang, xã hội phong kiến đã sinh ra bao Trương Sinh với đầu óc gia trưởng, độc đoán, là nguyên nhân sâu xa của những đau khổ mà người phụ nữ phải gánh chịu.      

2. Người phụ nữ là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa:

  •   Không chỉ là nạn nhân của chế độ nam quyền độc đoán, người phụ nữ còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến. Cả cuộc đời Vũ Nương, chỉ vui thú nghi gia nghi thất vậy mà về làm vợ Trương Sinh, cuộc sống vợ chồng “sum họp chưa thỏa tình chăn gối,chia phôi vì động việc lửa binh”. Buổi Trương Sinh ra đi, mẹ già bịn rịn, vợ trẻ đương bụng mang dạ chửa chưa khuyến luyến sự thể rồi sẽ ra sao đã khiến mọi người có mặt ở đó đều phải ứa hai hàng lệ: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được phong ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều con gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chin quá kỳ, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng”.
  •   Những câu văn biền ngẫu, sóng đôi như trái tim người vợ trẻ phập phồng lo sợ cho người chồng phải đi lính. Chiến tranh xa cách, mẹ già cũng vì thương nó con mà sinh bệnh qua đời. Con thơ được sinh ra không biết mặt cha, vợ trẻ nhớ chồng chỉ biết trỏ vào bóng mình trên vách, bảo là cha cuar bé…. Chính chiến tranh làm cho gia đình ly tán, vợ chồng xa cách dẫn tới hiểu lầm. Cũng chính cái mối nghi ngờ không thể gỡ ra ấy của Trương Sinh đã trở thành nguyên nhân gây bất hạnh cho cuộc đời Vũ Nương. Nếu không có chiến tranh, Trương Sinh không bị bắt đi lính, thì đâu bé Đản không chịu nhận cha, thì đâu Vũ Nương phải nhận nỗi oan tày trời dẫn đến cái chết thương tâm. Rõ rãng, chiến tranh phong kiến đã gây ra cảnh sinh ly và cũng góp phần dẫn đến cảnh tử biệt, làm tan nát bao nhiêu gia đình. 

=> Có thể nói, sống trong xã hội phong kiến bất công, Vũ Nương cũng như bao người phụ nữ khác – người con gái bình dân trong “Bánh trôi nước”, Thúy Kiều, Đạm Tiên trong “Truyện Kiều” đều phải sống long đong, trôi dạt, phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan ức, phải thoát khỏi cuộc đời đầy khổ đau ở chốn nhân gian. Đại thi hào Nguyễn Du đã khái quát về cuộc đời, thân phận người phụ nữ bằng tiếng kêu đầy ai oán: 

                                             “Đau đớn thay phận đàn bà

                                       Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” 

3. Giá trị nội dung, nghệ thuật 


C, Kết Bài


Bình luận về bài viết này
0 bình luận

Đang tải bình luận...


Đang tải nội dung cho bạn