Khánh Lâm

NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT TẠI VIỆT NAM.

Đăng 4 năm trước

Người Việt là một dân tộc có nguồn gốc tại miền bắc Việt Nam và miền nam Trung Quốc. Đây là dân tộc chính, chiếm khoảng gần 90% dân số Việt Nam và được chính thức gọi là dân tộc Kinh để phân biệt với những dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Ngôn ngữ chính sử dụng là tiếng Việt.

Tín ngưỡng: Phần lớn Đạo Khổng và Đạo Phật, với một thiểu số theo đạo Công giáo, Hòa Hảo và Cao Đài. Cũng có một thiểu số người Kinh theo đạo Hồi ở miền Tây Nam.

1. Nguồn gốc: 

Theo truyền thuyết dân tộc Kinh, những người Việt đầu tiên là con cháu của một Thần rồng tên là Lạc Long Quân và một vị tiên tên là Âu Cơ. Hai người này lấy nhau và đẻ ra một bọc 100 trứng và nở ra 100 người con. Những người con sinh ra cùng một bọc gọi là "cùng bọc" (hay còn gọi là Đồng bào) và "đồng bào" là cách gọi của người Việt để nói rằng tất cả người Việt Nam đều cùng có chung một nguồn gốc.


Nếu xét xa hơn nữa thì Lạc Long Quân, tên thật là Sùng Lãm, là con của Kinh Dương Vương, vua nước Xích Quỷ và Long Nữ; còn Âu Cơ là con gái của vua Đế Lai. Lạc Long Quân nối ngôi cha làm vua nước này. Bờ cõi nước Xích Quỷ phía bắc giáp hồ Động Đình (tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc), phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông giáp biển Nam Hải, phía tây giáp Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc).


Kinh Dương Vương tên thật là Lộc Tục, là con của Đế Minh, cháu ba đời của vua Thần Nông. Đế Minh đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.


Con cả của Lạc Long Quân và Âu Cơ trị vì dưới tên Hùng Vương, và là vị vua đầu tiên của người Việt. Vì thế, người Việt thường tự xưng là con Rồng cháu Tiên. Tổ tiên người Việt đã di cư từ miền nam Trung Quốc hiện giờ đến đồng bằng sông Hồng và hòa nhập với người dân bản xứ.


Vào năm 258 TCN An Dương Vương thành lập vương quốc Âu Lạc, tại miền Bắc Việt Nam bây giờ. Vào năm 208 TCN một viên tướng người Trung Quốc là Triệu Đà đánh bại An Dương Vương. Triệu Đà kết hợp Âu Lạc với các lãnh thổ tại miền cực nam Trung Quốc thành vương quốc Nam Việt.


2. Phân bố: 

Tuy gốc từ miền bắc Việt Nam, người Việt đã xâm chiếm phần lớn đất đai của vương quốc Chăm Pa và Đế quốc Khmer qua thời gian. Hiện nay họ là dân tộc chính trong phần lớn các tỉnh tại Việt Nam và chiếm một phần đáng kể trong dân số tại Campuchia. 

Vào thời kỳ Khmer Đỏ tại Campuchia, người Việt là nhóm người thiểu số bị ngược đãi nhiều nhất (nhóm Khmer Đỏ rất căm thù người Việt và kích động quần chúng dùng bạo lực đối với nhóm người này), hàng vạn người Việt đã bị giết sau nhiều cuộc tàn sát do chế độ này gây ra. Hầu hết những người sống sót đã di cư về Việt Nam.


Vào thế kỷ 16, một số người Việt di cư về phía bắc vào Trung Quốc. Tuy đã bị ảnh hưởng Trung Hoa nhiều hơn, con cháu những người này vẫn còn nói tiếng Việt và được công nhận là một dân tộc thiểu số tại Trung Quốc. 


Khi thực dân Pháp rời khỏi Việt Nam vào năm 1954, một số người Việt theo họ về Pháp. Trong lúc đó, khoảng 1 triệu người từ miền Bắc di tản vào miền Nam theo lời kêu gọi "Chúa đã vào Nam".


Sau Chiến tranh Việt Nam, một số người khác bỏ nước ra đi để tránh chính phủ Cộng sản. Phần lớn tái định cư tại Bắc Mỹ, Tây Âu và Úc. Tại Hoa Kỳ có một cộng đồng người Mỹ gốc Việt khá lớn.


3. Địa bàn cư trú của các tổ tiên các Dân tộc Việt Nam. 

Một số người cho rằng nguồn gốc của các dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ các dân tộc cổ đại sinh sống trên lục địa Trung Hoa, hoặc cao nguyên Tây Tạng, một số khác cho rằng nguồn gốc chính từ người Việt bản địa. 

Nhưng căn cứ vào các kết quả nghiên cứu gần đây, xem xét sự hình thành các dân tộc Việt Nam trong sự hình thành các dân tộc khác trong khu vực thì có thể nói rằng tất cả các dân tộc Việt Nam đều có cùng một nguồn gốc, đó là chủng Cổ Mã Lai. Quá trình hình thành các dân tộc Việt Nam có thể chia thành ba giai đoạn:


+ Theo các nhà nhân chủng học, nếu phân chia theo hình dáng thì loài người được chia thành bốn đại chủng, đó là: 

Đại chủng Âu (Caucasoid) 

Đại chủng Phi (Negroid) 

Đại chủng Á (Mongoloid)

Đại chủng Úc (Australoid, hay còn gọi là Đại chủng Phương Nam). 

Vào thời kỳ đồ đá giữa (khoảng 10.000 năm trước đây), có một bộ phận thuộc Đại chủng Á, sống ở vùng Tây Tạng di cư về phía đông nam, tới vùng ngày nay là Đông Dương thì dừng lại. Tại đây, bộ phận của Đại chủng Á kết hợp với bộ phận của Đại chủng Úc bản địa và kết quả là sự ra đời của chủng Cổ Mã Lai (tiếng Pháp: Indonésien). 

Người Cổ Mã Lai có nước da ngăm đen, tóc quăn gợn sóng, tầm vóc thấp. Người Cổ Mã Lai từ vùng Đông Dương lan tỏa về hướng bắc tới sông Dương Tử; về phía tây tới Ấn Độ, về phía nam tới các đảo của Indonesia, về phía đông tới Philippines.


+ Cuối thời kỳ đồ đá mới, đầu thời kỳ đồ đồng (khoảng 5.000 năm trước đây). Tại khu vực mà ngày nay là miền bắc Việt Nam, miền nam Trung Quốc (từ sông Dương Tử trở xuống), có sự chuyển biến do chủng Cổ Mã Lai tiếp xúc thường xuyên với Đại chủng Á từ phía bắc tràn xuống. 

Sự chuyển biến này hình thành một chủng mới là chủng Nam Á (tiếng Pháp: austro-asiatique). Do hai lần hòa nhập với Đại chủng Á mà chủng Nam Á có những nét đặc trưng nổi trội của Đại Chủng Á hơn là những nét đặc trưng của Đại chủng Úc. Cũng chính vì thế chủng Nam Á được liệt vào một trong những bộ phận của Đại chủng Á.


+ Thời kỳ sau đó, chủng Nam Á được chia thành một loạt các dân tộc mà các cổ thư Việt Nam và Trung Hoa gọi là Bách Việt. 

Thực ra không có đến một trăm (Bách) dân tộc nhưng quả thật đó là một cộng đồng dân cư rất đông đúc bao gồm: 

Điền Việt (cư trú tại Vân Nam, Trung Quốc), 

Dương Việt

Mân Việt

Đông Việt

Nam Việt (cư trú tại Quảng Đông, Trung Quốc), 

Lạc Việt (cư trú tại Quảng Tây, Trung Quốc và Bắc bộ, Việt Nam),... sinh sống từ vùng nam sông Dương Tử (Trung Quốc) cho đến Bắc bộ (Việt Nam). 

Ban đầu, họ nói một số thứ tiếng như: Môn-Khơ me, Việt-Mường, Tày-Thái, Mèo-Dao,... Sau này quá trình chia tách này tiếp tục để hình thành nên các dân tộc và các ngôn ngữ như ngày nay. 

Trong khi đó, phía nam Việt Nam, dọc theo dải Trường Sơn vẫn là địa bàn cư trú của người Cổ Mã Lai. Theo thời gian họ chuyển biến thành chủng Nam Đảo. Đó là tổ tiên của các dân tộc thuộc nhóm Chàm.


Việc xác định về mặt địa lý có thể hình dung như sau:

Địa bàn cư trú của người Bách Việt: là một tam giác mà đáy là sông Dương Tử, Trung Quốc, đỉnh là Bắc trung bộ, Việt Nam.Địa bàn cư trú của người Bách Việt và Nam Đảo: là một tam giác mà đáy là sông Dương Tử, Trung Quốc, đỉnh là đồng bằng sông Mê Kông, Việt Nam.


4. Các dân tộc Việt Nam hiện nay 

Theo số liệu thống kê năm 2000, Việt Nam có 54 dân tộc. Dân tộc đông nhất là dân tộc Kinh (Việt), chiếm 87% dân số. Các dân tộc thiểu số đông dân nhất: 

Tày (1.190.000)

Thái (1.040.000)

Mường (914.000)

Hoa (900.000)

Khmer (895.000)

Nùng (706.000)

Hmông (558.000)

Dao (474.000) 

Giarai (242.000)

Êđê (195.000). 

Những dân tộc còn lại có dân số dưới 100.000 người, một nửa trong số đó có dân số dưới 10.000 người. Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Cuối cùng là các dân tộc Brâu, Ơ Đu và Rơ Măm chỉ có khoảng vài trăm người.


54 dân tộc Việt Nam, xếp theo nhóm ngôn ngữ: 

• Nhóm Việt-Mường: Chứt | Mường | Thổ | Việt (Kinh)

• Nhóm Tày–Thái: Bố Y | Giáy | Lào | Lự | Nùng | Sán Chay | Tày | Thái 

• Nhóm Môn–Khmer: Ba Na | Brâu | Bru - Vân Kiều | Chơ-ro | Co | Cơ-ho | Cơ-tu | Giẻ-triêng | Hrê | Kháng | Khmer | Khơ-mú | Mạ | Mảng | M'Nông | Ơ-đu | Rơ-măm | Tà-Ôi | Xinh-mun | Xơ-đăng | Xtiêng 

• Nhóm H'Mông–Dao: Dao | H'Mông | Pà Thẻn 

• Nhóm Kadai: Cờ lao | La-chí | La ha | Pu péo 

• Nhóm Nam đảo: Chăm | Chu-ru | Ê-đê | Gia-rai | Ra-glai 

• Nhóm Hán: Hoa | Ngái | Sán dìu 

• Nhóm Tạng: Cống | Hà Nhì | La Hủ | Lô Lô | Phù Lá | Si La


5. Các bằng chứng địa chất và khảo cổ học 

Một trong các bằng chứng nổi bật nhất chứng minh các dân tộc Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, có chung một nguồn gốc là việc các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra rất nhiều điểm tương đồng về một nền văn hóa rất phát triển gọi là văn hóa Hòa Bình ở rải rác các nơi ở Đông Nam Á như Việt Nam, Thái Lan,... Các nghiên cứu đã rút ra kết luận rằng:


+ Có một nền văn minh Đông Nam Á cổ đại có mặt từ rất sớm, khoảng 15.000 trước Công nguyên. Nơi đây, con người biết trồng cây, làm đồ gốm, đúc đồng sớm nhất trên thế giới. 

Các vật dụng được khai quật ở tây bắc Thái Lan, miền bắc Việt Nam, Malaysia, Philippines, bắc Úc cho thấy họ biết làm những vật đó trước Trung Đông, Ấn Độ, Trung Hoa mấy ngàn năm.

+ Nền văn minh Đông Nam Á không phải là hệ quả của việc du nhập từ các nền văn minh khác như Ấn Độ, Trung Hoa, Trung Đông mà ngược lại, văn minh từ Đông Nam Á lan tỏa đến các vùng khác như Trung Hoa 6.000 đến 7.000 năm trước Công nguyên: Văn hóa Long Sơn (Lungsan) và văn hóa Ngưỡng Thiều (Yangshao) đều là hệ quả của văn hóa Hòa Bình.


+ Các dữ liệu mới chỉ tìm thấy cách đây vài chục năm như trên đã làm thay đổi cách suy nghĩ của các nhà khảo cổ học về sự tiến triển của các nền văn minh trên Trái Đất. 

Việc tìm thấy nền văn minh Đông Nam Á rất sớm đó có thể khẳng định các dân tộc ở vùng này là có liên hệ chủng tộc với nhau. Họ hoàn toàn không phải là hệ quả của các chủng tộc khác từ Trung Hoa tới.


6. Các bằng chứng ngôn ngữ học, văn hóa dân gian: 

Truyền thuyết "Con Rồng cháu Tiên" nói về nguồn gốc của dân tộc Việt.Nguồn gốc dân tộc Việt bắt đầu từ họ Hồng Bàng. Vị vua đầu tiên là Kinh Dương Vương (vua nước Xích Quỷ - tức là Quỷ Đỏ) hiện còn có mộ tại làng An Lữ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. 

Ông lên làm vua vào khoảng năm Nhâm Tuất (hơn 2000 năm trước Công nguyên) sau đó lấy bà Long Nữ (con gái Thần Long là vua Hồ Động Đình), sinh hạ được Sùng Lãm (lấy hiệu là Lạc Long Quân). Ông lấy bà Âu Cơ (con gái Đế Lai) sinh ra 100 trứng, nở ra 100 người con. 

Một hôm nhà Vua bảo bà Âu Cơ: "Ta là giống Rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó". 

Bèn từ biệt, hai ông bà đồng ý chia hai số người con; năm mươi người con theo mẹ lên núi, số còn lại theo cha xuống biển. 

Sau đó, nước Xích Quỉ chia thành nhiều nước gọi là Bách Việt. Một trong các nước nhỏ này là nước Văn Lang. 

Lạc Long Quân về sau phong cho người con trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng hiệu là Hùng Vương thứ 1, đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (Bạch Hạc, Vĩnh Phúc hoặc Phú Thọ). 

Dòng dõi Hùng Vương lưu truyền được 18 đời, đến đời Hùng Vương thứ 18 thì bị nhà Thục lấy mất nước.


Một số nhà Nhân chủng ngôn ngữ học đã xác định một số từ Trung Quốc có gốc rễ từ các từ Việt cổ, như "giang" (江), có nghĩa là sông (xem Dương Tử Giang). 越, 粵, 鉞 trong Hán văn cổ đều có âm là "việt" và cùng nghĩa có thể thay thế lẫn nhau được. 

Ngày nay 鉞 là "lưỡi rìu dùng trong nghi lễ" có thể tìm thấy rất nhiều ở Hàng Châu, Triết Giang là một phát minh phía nam Trung Quốc; 粵 là tên gọi tắt cho tỉnh Quảng Đông; còn 越 chỉ Việt (Việt Nam) hoặc khu vực bắc Triết Giang bao quanh Thiệu Hưng và Ninh Ba. 

Các tên gọi có thể có nguồn gốc phương Nam như Thần Nông, Nữ Oa vì không theo ngữ pháp tiếng Hán. Các tập tục: ăn trầu, nhuộm răng, bốc mả...

Bình luận về bài viết này
0 bình luận

Đang tải bình luận...


Đang tải nội dung cho bạn